Tưởng chừng những vùng đất bình yên đẹp như trong chuyện cổ tích không thực sự tồn tại. Tuy nhiên, trên thế giới một số địa danh có vẻ đẹp không khác xứ thần tiên khiến chúng ta chỉ muốn thời gian ngừng trôi để tận hưởng sự thư thái, phiêu bồng.
TU VIỆN “HANG HỔ”
Tu viện Taktsang Palphug (còn gọi là Hang Hổ), là một ngôi đền nổi tiếng, địa điểm thiêng liêng của Phật giáo Tây Tạng Kim cương thừa, nằm cheo leo bên vách đá của thung lũng Paro trên dãy Himalaya thuộc thuộc Bhutan.
Ngôi đền đầu tiên được xây dựng vào năm 1692, xung quanh hang động Taktsang Senge Samdup, nơi Guru Padmasambhava (Đức Phật Liên Hoa Sanh) được cho là đã ngồi thiền trong 3 năm, 3 tháng, 3 tuần, 3 ngày và 3 giờ vào thế kỷ thứ 8. Padmasambhava được ghi công với việc đưa Phật giáo vào Bhutan và là vị thánh bảo hộ của đất nước.
Theo truyền thuyết, người ta tin rằng Đức Padmasambhava bay đến địa điểm này từ Tây Tạng ở phía sau một con hổ cái từ Khenpajong. Ngày nay, Paro Taktsang là địa điểm tốt nhất tổ chức lễ hội Phật giáo Tsechu, còn được gọi là "ngày mười" tổ chức vào ngày 10 âm lịch của tháng (tháng được chọn tùy thuộc vào địa điểm tổ chức).
Tu viện nằm cách Paro 10km về phía bắc và tọa lạc trên một vách đá cheo leo ở độ cao 3.120m, khoảng 900m trên thung lũng Paro, các sườn đá rất dốc (gần như thẳng đứng) và các tòa nhà của tu viện được xây dựng vào mặt đá.
Đây là đền thờ dành cho Đức Padmasambhava với một cấu trúc được xây dựng xung quanh các hang động bởi Gyalse Tenzin Rabgye và đã trở thành biểu tượng văn hóa của Bhutan.
“XÃ ĐẢO” NHỎ BÉ VÀ XINH ĐẸP
Mont-Saint-Michel là một xã đảo ở Normandie, Pháp. Nó nằm ngoài khơi khoảng 1km bờ biển tây bắc tại cửa sông Couesnon, gần Avranches và có diện tích khoảng 100 hécta.
Mont-Saint-Michel được cấu thành từ đá granit sáng màu và được củng cố bởi nền dung nham nóng chảy xâm nhập cách đây 525 triệu năm vào Kỷ Cambri và là một phần của khối đá Batholith Mancellian. Hòn đảo có chu vi khoảng 960m với điểm cao nhất đạt 92m so với mực nước biển.
Kỷ Cambri là kỷ sớm nhất mà trong các lớp đá của thời kỳ đó người ta tìm thấy một lượng lớn các sinh vật đa bào đã hóa thạch một cách rõ ràng, chúng phức tạp hơn so với hải miên (bọt biển, ngành Porifera) hay sứa (phân ngành Medusozoa).
Kỷ Cambri là kỷ sớm nhất mà trong các lớp đá của thời kỳ đó người ta tìm thấy một lượng lớn các sinh vật đa bào đã hóa thạch một cách rõ ràng, chúng phức tạp hơn so với hải miên (bọt biển, ngành Porifera) hay sứa (phân ngành Medusozoa).
Hòn đảo đã được tổ chức như là một công sự từ thời cổ đại và kể từ thế kỷ 8 nó là một tu viện mà từ đó đã hình thành lên cái tên Mont-Saint-Michel. Cấu trúc của xã đảo này đại diện cho xã hội phong kiến với khu vực cao nhất là tu viện Thiên chúa, thấp hơn là Đại sảnh rồi đến nhà ở, cửa hàng và bức tường phòng thủ. Bên ngoài là nhà ở cho nông dân và ngư dân.
Với vị trí vô cùng độc đáo khi nằm trên một hòn đảo chỉ cách đất liền gần 1km khiến cho nó là một nơi dễ dàng được những người hành hương đến tu viện tiếp cận khi thủy triều xuống. Đây là một trong số những địa điểm nổi tiếng nhất ở Pháp với khoảng 3 triệu du khách ghé thăm mỗi năm.
Mont-Saint-Michel và vịnh biển của nó đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Hơn 60 tòa nhà trên đảo được công nhận là Di tích lịch sử của Pháp.
YAQUINA - ÁNH SÁNG DẪN ĐƯỜNG
Ngọn hải đăng Yaquina (bang Oregon, Mỹ) được cho là công trình cổ nhất thành phố Newport, Oregon, tọa lạc ven bờ vịnh Yaquina.
Được hoàn thành vào năm 1871 nhưng chỉ sau 3 năm, nó đã bị ngưng hoạt động sau khi một ngọn hải đăng mới được xây dựng. Năm 1946, nó dự kiến sẽ bị phá dỡ nhưng Hội Lịch sử xã hội Hạt Lincoln đã quyên góp tiền để bảo tồn nó.
Vào năm 1951, ngọn hải đăng Yaquina đã được công nhận là di tích lịch sử, hoạt động như một bảo tàng trong suốt 18 năm. Năm 1970, ngọn hải đăng trở thành địa danh lịch sử quốc gia và được tu sửa theo Luật Bảo tồn Lịch sử.
Năm 1996, sau hơn 100 năm ngưng hoạt động, ngọn hải đăng đã được thắp sáng trở lại và mở cửa cho du khách tham quan.
NGÔI ĐỀN BỊ “NUỐT TRỌN” BỞI CÂY TUNG
Ta Prohm là tên gọi hiện đại của một ngôi đền tại Angkor, Campuchia, được xây theo phong cách Bayon vào cuối thế kỷ 12 và đầu thế kỷ 13, ban đầu được gọi là Rajavihara. Tọa lạc cách Angkor Thom về phía đông, đền do vua Jayavarman VII xây dựng năm 1189 dài 1km, rộng 700m, tốn 5 vạn lượng vàng, 5 vạn lượng bạc và nhiều đá quý.
Ta Prohm là một trong những ngôi đền đầu tiên được xây dựng, bia ghi là vào năm 1186. Sau khi triều đại của đế chế Khmer đi xuống, đền Ta Prohm rơi vào sự quên lãng và nó được phát hiện trở lại vào đầu thế kỷ 20.
Bố trí của Ta Prohm về cơ bản là giống dạng đền "phẳng" của đền Khmer, với 5 bờ tường hình chữ nhật bao quanh điện thờ linh thiêng trung tâm. Giống như hầu hết các điện thờ Khmer, Ta Prohm hướng về phía Đông. Tường ngoài cùng có khuôn viên 1.000m × 650m nhưng bây giờ đã bị bao phủ bởi cây cối.
Ta Prohm có ít phù điêu. Một trong các giải thích về sự thiếu hụt này là do các tác phẩm nghệ thuật bị tàn phá bởi những người bài trừ thánh tượng Hindu. Công trình đồ sộ này chia làm nhiều tháp chính, tháp phụ và các khu vực trung tâm hay gian điện thờ. Bị rừng già bao phủ và gần như bị các cây tung nuốt trọn nên số phận của đền và đền Preah Khan gần giống như nhau.
Tuy nhiên, xét về mức độ tàn phá, Preah Khan bị các cây tung phá hoại nhiều hơn nên đền Preah Khan có cảm giác kỳ bí hơn rất nhiều. Nhưng do Ta Prohm nằm gần hơn Preah Khan nên được các du khách viếng thăm nhiều nhất. Ở trung tâm của các tháp thờ có các linga và yoni đặt ở giữa của chánh điện. Bên trong các tháp, gạch đá nằm ngổn ngang và gần như công việc trùng tu ngôi đền vẫn còn đang tiếp diễn.
NHÀ THỜ THÁNH BASIL
Là một nhà thờ Chính thống giáo Nga tọa lạc tại Quảng trường Đỏ, Moskva và là một trong những biểu tượng văn hóa nổi tiếng nhất của Nga.
Hiện nay, nhà thờ là một viện bảo tàng và có tên gọi chính thức là Nhà thờ chính tòa Cầu bầu của Mẹ Thiên Chúa trên Hào lũy hoặc Nhà thờ Pokrovsky. Nguyên gốc, công trình này bao gồm 9 nhà nguyện (1 ở giữa và 8 ở các hướng xung quanh) với 9 mái vòm, cùng với hành lang hiên và các mái nhọn, được xây dựng từ năm 1555 tới năm 1561 theo lệnh của Ivan Hung Đế để kỷ niệm sự chiến thắng ở Kazan và Astrakhan. Sau này, 2 nhà nguyện nhỏ hơn được xây nối thêm.
Nhà thờ chính là công trình cao nhất ở Moskva cho tới khi Tháp chuông Ivan Đại Đế được hoàn thành năm 1600. Vào thế kỷ 16 và 17, nhà thờ được coi là tượng trưng cho Đền thờ Jerusalem với cuộc rước Chúa nhật Lễ Lá diễn ra hằng năm với sự tham dự của Thượng phụ Moskva và Sa hoàng.
Tại đây có một trong những bộ sưu tập chuông lớn nhất ở Nga, bao gồm tổng cộng 19 chiếc chuông được đúc ở Urals, Yaroslavl, Moscow, Belarus, Pháp, Hà Lan và Đức trong những năm 1547 - 1996.
CÔNG VIÊN ĐỊA CHẤT ĐỘC ĐÁO
Là một công viên địa chất gần thành phố Trương Dịch, tỉnh Cam Túc, phía tây bắc của Trung Quốc.
Công viên có diện tích 510km2. Trước đây là một thắng cảnh và công viên cấp tỉnh, đến tháng 11 năm 2011 nó đã trở thành một công viên địa chất quốc gia. Được biết đến với các địa mạo đá đầy màu sắc có từ hơn 24 triệu năm tích tụ các mỏ khoáng sản và đá sa thạch bị oxy hóa xếp chồng lên nhau. Công viên đã được nhiều cơ quan truyền thông bình chọn là một trong những khu vực địa mạo đẹp nhất ở Trung Quốc.
Công viên nằm ở chân đồi phía bắc dãy núi Kì Liên, trong các huyện Lâm Trạch và Túc Nam, thuộc quản lý của địa cấp thị Trương Dịch, tỉnh Cam Túc. Địa mạo Đan Hà chủ yếu nằm ở 2 hương Khang Lạc và Bạch Ngân.
Phần chủ yếu của Công viên, khu cảnh quan Đan Hà Lâm Trạch, nằm cách 30km về phía tây Trương Dịch và 20km về phía nam trung tâm huyện Lâm Trạch. Đây là khu vực phát triển và được nhiều du khách ghé thăm nhất của Công viên.
Khu cảnh quan thứ 2, Băng Câu, nằm ở bờ bắc sông Lê Viên được khai trương chính thức vào ngày 3/8/2014. Băng Câu chiếm diện tích 300km2 và độ cao của nó nằm trong khoảng từ 1.500 - 2.500m trên mực nước biển. Khu vực thứ 3, khu cảnh quan Đan Hà Túc Nam, nằm gần trấn Cam Tuấn (Cam Châu), phía nam Lâm Trạch.
“NGÔI NHÀ CỦA PHÙ THỦY”
Một nhà thờ cột và ván gỗ là phong cách xây dựng cơ sở Kitô giáo thời Trung cổ từng rất phổ biến ở tây bắc châu Âu.
Cấu trúc của tòa nhà gồm có những cây cột chịu lực và xà ngang (rầm nhà) và một bộ khung bằng những cây gỗ, tường là những tấm ván gỗ, cột chịu lực chính được gọi là stafr trong tiếng Na Uy cổ, và stav trong tiếng Na Uy hiện đại, từ đó loại nhà thờ này được gọi là stavkirke (theo tiếng Na Uy).
Kiểu cách nhà thờ này bắt đầu được xây từ khi người dân Bắc Âu theo đạo Ki-tô nhiều nhất trong thế kỷ 12, 13 cho đến thời Hậu kỳ Trung Cổ. Trong thời Trung cổ có lẽ có hơn 1.000 nhà thờ như thế ở Na Uy (một số người tin rằng có thể còn nhiều hơn, đến khoảng 2.000 nhà thờ), nhưng đa số đã biến mất trong những năm 1350 – 1650.
Trong năm 1650, có khoảng 270 nhà thờ ván gỗ còn tồn tại và 136 nhà thờ trong số này đã biến mất ở khoảng thời gian 100 năm tiếp theo. Ngày nay, chỉ còn có thể bảo quản 28 nhà thờ ván gỗ thời Trung cổ ở Na Uy. Trong số đó là Nhà thờ bằng ván gỗ ở Urnes, xây dựng khoảng năm 1130, được công nhận là Di sản thế giới UNESCO.
Bên ngoài Na Uy chỉ còn một nhà thờ ván gỗ xây dựng khoảng năm 1500 tại Hedared, đô thị Borås, Thụy Điển và một nhà thờ ván gỗ Na Uy được chuyển năm 1842 đến tái dựng lại tại ngoại ô Krummhübel, Đức, nay là thuộc Karpacz tỉnh Dolnośląskie, Ba Lan.
LÂU ĐÀI CỔ TÍCH LÀ CÓ THẬT
Neuschwanstein là một lâu đài nằm trong địa phận của làng Schwangau gần Füssen của miền nam nước Đức do Vua Ludwig II cho xây dựng.
Là lâu đài nổi tiếng nhất trong số các lâu đài của Ludwig II và là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của nước Đức. Lâu đài còn được các doanh nghiệp lữ hành gọi là "Lâu đài trong truyện cổ tích".
Lâu đài được sử dụng làm hình mẫu cho "lâu đài nàng công chúa ngủ" trong công viên Walt Disney. Ngay gần đấy là Lâu đài Hohenschwangau, nơi Ludwig II cư ngụ với gia đình vào mùa hè khi ông còn niên thiếu.
Lâu đài được xây để làm nơi ở riêng cho vua Ludwig, cho đến khi ông qua đời vào năm 1886. Lâu đài được mở cửa cho công chúng tham quan ngay sau khi ông qua đời. Kể từ thời điểm đó, tổng cộng đã có hơn 61 triệu lượt người tham quan lâu đài Neuschwanstein. Mỗi năm có hơn 1,3 triệu lượt người tham quan lâu đài này, với 6.000 lượt người mỗi ngày vào mùa hè.
Năm 1977, Lâu đài Neuschwanstein trở thành mô-típ của một con tem chính thức của Tây Đức và nó xuất hiện trên Đồng 2 euro kỷ niệm của Đức vào năm 2012. Năm 2007, lâu đài lọt vào vòng chung kết trong cuộc bình chọn 7 kỳ quan mới được công bố rộng rãi trực tuyến của Thế giới.
HANG ĐỘNG CỦA CÁC VỊ VUA
Hang Phraya Nakhon nằm bên trong Công viên Quốc gia Khao Sam Roi Yot ở tỉnh Prachuap Khiri Khan của Thái Lan.
Theo truyền thuyết địa phương, hang động được phát hiện khoảng 200 năm trước khi người cai trị địa phương, Nakhon Srithammaraja, buộc phải bỏ tàu trong một cơn bão và tìm nơi ẩn náu trong hang động. Tuy nhiên, một số nhà sử học tin rằng hang động được phát hiện bởi hoặc ít nhất được đặt theo tên của một nhà quý tộc tên là Nakhon, sống ở vùng này vào thế kỷ 17.
Dù thế nào đi nữa, hang động từ lâu đã là một điểm tham quan tự nhiên quý giá dọc theo phần phía bắc của Bán đảo Mã Lai. Khi ánh nắng tràn vào hang, chiếu sáng những măng đá, nhũ đá trong hang và những hàng cây xanh tươi nghiêng mình về phía ánh sáng từ nền cát bên dưới. Đó là một khung cảnh thanh bình và huyền bí, được cho là phù hợp với các vị vua.
Năm 1890, nhân chuyến viếng thăm của vua Chulalongkorn (Rama V), bên trong hang động đã xây dựng một gò đất. Trên gò đất này có đặt một ngôi đình nhỏ, được xây dựng ở Bangkok và được lắp ráp bên trong hang động. Nằm ở vị trí hoàn hảo để đón trọn vẹn ánh nắng ban mai, Khuha Kharuehat Pavilion, đã trở thành biểu tượng của tỉnh Prachuap Khiri Khan.
Sau đó, vua Prajadhipok (Rama VII) đã viếng thăm nó, người cũng giống như vua Chulalongkorn, đã khắc tên mình lên tường của căn phòng chính của hang động. Cố Quốc vương Bhumibol Adulyadej (Rama IX) cũng đã đến thăm Hang Phraya Nakhon, nhưng không giống như những người tiền nhiệm, ông không để lại chữ ký của mình trên tường.
Thời điểm tốt nhất để tham quan hang động là vào sáng sớm khi ánh sáng mặt trời chiếu vào và chiếu sáng bàn thờ trên đỉnh đồi được phủ một tấm vải màu hồng trên đó.
NƠI ĐỨC MẸ MARIA HIỆN THÂN
Las Lajas Sanctuary là một tiểu vương cung thánh đường ở thành phố tự trị Ipiales thuộc tỉnh Nariño, trong hẻm núi của sông Guáitara, miền nam Colombia, cách biên giới với Ecuador khoảng 10km.
Nơi này là một địa điểm hành hương nổi tiếng kể từ khi có tường thuật về cuộc hiện ra của Đức Mẹ Maria trong khoảng năm 1754. Các hình ảnh trên đá vẫn còn được nhìn thấy cho đến ngày nay.
Ngôi đền thờ đầu tiên được xây dựng tại đây vào giữa thế kỷ 18 (khoảng giữa những năm 1756 và 1764) từ rơm rạ, gỗ và đã được thay thế bằng ngôi đền lớn hơn trong năm 1802, được mở rộng và kết nối với phía đối diện của hẻm núi bởi một cây cầu.
Nhà thờ hiện nay được xây theo phong cách Gothic Revival (Gothic Phục hưng) từ năm 1916 - 1949. Tên gọi Laja bắt nguồn từ một loại đá trầm tích giống với đá phiến sét.