Vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,8% (cao nhất trong 5 năm qua); Sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng tích cực; Hoạt động vận tải diễn ra sôi động... là những điểm sáng của nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2024.
HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 5/2024 giảm nhẹ 0,1% so với tháng trước do nhu cầu tiêu dùng, đi lại của người dân suy giảm sau kỳ nghỉ lễ 30/4 và 1/5. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm 2023 lại tăng 9,5% nhờ sự đóng góp tích cực của ngành du lịch.
Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,7% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 15,1%; doanh thu du lịch lữ hành tăng 45,1%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng 5/2024 ước đạt 519,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 9,9%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 9,0%; may mặc tăng 9,3%; dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 17,0%; du lịch lữ hành tăng 34,3%.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 2.580,2 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ tăng 12,3%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,2% (cùng kỳ tăng 9,3%).
HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP
Trong tháng, cả nước có hơn 13,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 93,2 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký gần 72,6 nghìn lao động, giảm 13,7% về số doanh nghiệp, giảm 47% về vốn đăng ký và giảm 23,6% về số lao động so với tháng 4/2024. So với cùng kỳ năm 2023, tăng 9,2% về số doanh nghiệp, giảm 10,1% về số vốn đăng ký và giảm 2,7% về số lao động.
Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 7,1 tỷ đồng, giảm 38,5% so với tháng trước và giảm 17,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, cả nước còn có 6.749 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 18,8% so với tháng trước và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2023.
Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, cả nước có 64,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký hơn 601,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký 426,4 nghìn lao động, tăng 4,5% về số doanh nghiệp, tăng 5,7% về vốn đăng ký và tăng 5% về số lao động so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 5 tháng đầu năm 2024 đạt 9,3 tỷ đồng, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Bên cạnh đó, có gần 34,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2023), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 5 tháng đầu năm 2024 lên hơn 98,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Bình quân một tháng có 19,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Cũng trong tháng, có 5.303 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 30,4% so với tháng trước và giảm 1,1% so với cùng kỳ năm 2023; có 4.550 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 2,3% và giảm 3,5%; có 1.538 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 14,4% và tăng 25,8%.
Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 66,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2023; 23,3 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 8,8%; gần 8 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 8,4%. Bình quân một tháng có 19,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
CÁN CÂN XUẤT - NHẬP KHẨU
Cũng trong tháng, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 66,62 tỷ USD, tăng 9,1% so với tháng trước và tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 305,53 tỷ USD, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó xuất khẩu tăng 15,2%; nhập khẩu tăng 18,2%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 8,01 tỷ USD.
Về xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 5/2024 ước đạt 32,81 tỷ USD, tăng 5,7% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 9,37 tỷ USD, tăng 2,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 23,44 tỷ USD, tăng 6,9%. So với cùng kỳ năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng tăng 15,8%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 13,0%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 17,0%.
Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 156,77 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 43,69 tỷ USD, tăng 20,5%, chiếm 27,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 113,08 tỷ USD, tăng 13,3%, chiếm 72,1%.
Trong 5 tháng đầu năm 2024 có 26 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 90,0% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 65,3%).
Về nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 5/2024 ước đạt 33,81 tỷ USD, tăng 12,8% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 12,81 tỷ USD, tăng 11,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,0 tỷ USD, tăng 13,7%. So với cùng kỳ năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng tăng 29,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 38,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 25,3%.
Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 148,76 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 54,95 tỷ USD, tăng 24,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 93,81 tỷ USD, tăng 14,9%.
Trong 5 tháng đầu năm 2024 có 27 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 84,5% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 4 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 47,0%).
CHỈ SỐ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
Sản xuất công nghiệp tháng 5/2024 tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng tích cực hơn so với tháng trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp trong tháng ước tính tăng 3,9% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 6,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 5/2024 ước tính tăng 3,9% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, so với cùng kỳ năm ngoái, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,4%; riêng ngành khai khoáng giảm 9,4%.
Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, IIP ước tính tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ giảm 2,0%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 7,3% (cùng kỳ giảm 2,6%), đóng góp 6,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 12,7% (cùng kỳ tăng 1,2%), đóng góp 1,1 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,3% (cùng kỳ tăng 5,9%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,2% (cùng kỳ giảm 2,4%), làm giảm 0,8 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
THU - CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Thu ngân sách Nhà nước 5 tháng đầu năm 2024 ước tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2023. Bên cạnh đó, chi ngân sách Nhà nước ước tăng 0,5% so với cùng kỳ năm ngoái, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.
Thu ngân sách Nhà nước:
Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 5/2024 ước đạt 150,9 nghìn tỷ đồng. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024 tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 898,4 nghìn tỷ đồng, bằng 52,8% dự toán năm và tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, một số khoản thu chính như sau:
- Thu nội địa tháng 5/2024 ước đạt 118,4 nghìn tỷ đồng. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 757,5 nghìn tỷ đồng, bằng 52,4% dự toán năm và tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2023.
- Thu từ dầu thô tháng 5/2024 ước đạt 5 nghìn tỷ đồng; lũy kế 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 24,7 nghìn tỷ đồng, bằng 53,6% dự toán năm và giảm 5,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
- Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu tháng 5/2024 ước đạt 27,5 nghìn tỷ đồng; lũy kế 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 116,2 nghìn tỷ đồng, bằng 57% dự toán năm và tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước.
Chi ngân sách Nhà nước:
Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 5/2024 ước đạt 140,1 nghìn tỷ đồng; lũy kế 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 656,7 nghìn tỷ đồng, bằng 31% dự toán năm và tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Trong đó, chi thường xuyên 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 460,5 nghìn tỷ đồng, bằng 36,6% dự toán năm và tăng 1,8% so với cùng kỳ năm ngoái; chi đầu tư phát triển đạt 148,3 nghìn tỷ đồng, bằng 21,9% và giảm 5,6%; chi trả nợ lãi 47,5 nghìn tỷ đồng, bằng 42,5% và tăng 10,1%.
VẬN TẢI HÀNH KHÁCH VÀ HÀNG HÓA
Vận tải hành khách tháng 5/2024 ước đạt 360,5 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 3,9% và luân chuyển 21,1 tỷ lượt khách/km, giảm 6,8% so với tháng trước do trong tháng không có nhiều ngày nghỉ lễ nên nhu cầu đi lại, du lịch của người dân giảm.
Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 1.935,1 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm 2023 và luân chuyển đạt 111,4 tỷ lượt khách/km, tăng 12,7%. Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 1.927,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 6,0% so với cùng kỳ năm ngoái và 86,3 tỷ lượt khách/km luân chuyển, tăng 5,4%; vận tải ngoài nước ước đạt 7,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 35,5% và 25,1 tỷ lượt khách/km luân chuyển, tăng 47,8% so với cùng kỳ năm 2023.
Vận tải hàng hóa tháng 5/2024 ước đạt 206,1 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 2,2% so với tháng trước và luân chuyển 39,9 tỷ tấn/km, giảm 3,0% - chủ yếu do luân chuyển hàng hóa bằng đường biển giảm 7,7% so với tháng trước.
Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, vận tải hàng hóa ước đạt 1.028 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm 2023 và luân chuyển 208,4 tỷ tấn/km, tăng 7,9%. Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 1.008,9 triệu tấn vận chuyển, tăng 11,6% và 126,6 tỷ tấn/km luân chuyển, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm ngoái; vận tải ngoài nước ước đạt 19,1 triệu tấn vận chuyển, tăng 4,3% và 81,8 tỷ tấn/km luân chuyển, tăng 15,4%.
KHÁCH QUỐC TẾ ĐẾN VIỆT NAM
Do chính sách thị thực thuận lợi, chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch năm 2024 được các địa phương trên cả nước đẩy mạnh nên lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng khá cao so với cùng kỳ năm 2023.
Trong tháng, số lượng khách quốc tế đến nước ta đạt gần 1,4 triệu lượt người, tăng 51% so với cùng kỳ năm ngoái. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, khách quốc tế đạt gần 7,6 triệu lượt người, tăng 64,9% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2019 (năm chưa xảy ra đại dịch Covid-19).
Trong tổng số gần 7,6 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam 5 tháng đầu năm 2024, khách đến bằng đường hàng không đạt hơn 6,3 triệu lượt người, chiếm 83,7% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam và gấp 1,6 lần cùng kỳ năm 2023; bằng đường bộ đạt gần 1,1 triệu lượt người, chiếm 14,2% và gấp 2,1 lần; bằng đường biển đạt 162,4 nghìn lượt người, chiếm 2,1% và gấp 3,2 lần.
VỐN FDI ĐĂNG KÝ CẤP MỚI
Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước trong tháng 5/2024 được các Bộ, ngành và địa phương tập trung đẩy mạnh thực hiện. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 26,6% kế hoạch năm, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện tại Việt Nam 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 8,25 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trong tháng ước đạt 48,2 nghìn tỷ đồng, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2023, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý đạt 8,6 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5%; vốn địa phương quản lý đạt 39,6 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7%. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 190,6 nghìn tỷ đồng, bằng 26,6% kế hoạch năm và tăng 5,0% so với cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ bằng 24,8% và tăng 21,5%).
Trong số 53 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam của 5 tháng đầu năm 2024, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 2,92 tỷ USD, chiếm 36,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đặc khu hành chính Hồng Kông (Trung Quốc) 957,2 triệu USD, chiếm 12,1%; Nhật Bản 947,7 triệu USD, chiếm 11,9%; Trung Quốc 926,1 triệu USD, chiếm 11,7%; Thổ Nhĩ Kỳ 730,1 triệu USD, chiếm 9,2%; Đài Loan (TQ) 517,1 triệu USD, chiếm 6,5%.
6 địa phương dẫn đầu về thu hút vốn FDI đăng ký cấp mới là Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Đồng Nai, Hưng Yên và Thái Nguyên.