Top 10 loài chim “khủng” nhất trái đất

10-loai-chim.jpg

Hàng ngày, chúng ta thường chỉ gặp các loài chim có vóc dáng nhỏ bé. Trong thực tế, tồn tại những loài chim “khủng” có kích thước, cân nặng gấp vài trăm lần những chú chim sẻ, họa mi…

Hành tinh của chúng ta có gần 10.000 loài chim với đủ mọi hình dạng và kích thước khác nhau. Từ loài chim ruồi ong nhỏ bé đến loài đà điểu khổng lồ cũng như các loài chim có màu sắc độc đáo.

Trong khi đó, loài chim lớn nhất trên Trái đất của chúng ta lại… không biết bay, chúng sở hữu xương dày và cơ thể chắc khỏe. Sự thích nghi tiến hóa đã giúp chúng có kích thước vượt xa những loài chim khác. Đổi lại, đôi chân của chúng có thể chạy với tốc độ “kinh người” nhằm trốn tránh kẻ săn mồi.

10-tit.jpg

Chim hải âu tuyết (Diomedea exulans) còn được gọi là chim hải âu lang thang, chim hải âu cánh trắng là một loài chim biển lớn thuộc họ Diomedeidae, chúng có phạm vi phân bố quanh cực ở Nam Đại Dương.

Chim hải âu tuyết là một trong 2 thành viên lớn nhất của chi Diomedea (chim hải âu lớn) có kích thước tương tự như chim hải âu hoàng gia phương Nam. Nó có sải cánh lớn nhất được biết đến trong số các loài chim còn sống và cũng là một trong những loài chim có phạm vi bay xa nhất.

hai-au-tuyet.jpg

Chim hải âu tuyết có sải cánh dài nhất trong số các loài chim còn sống, đạt tới hơn 3,5m với sải cánh trung bình là 3,1m. Chiều dài cơ thể khoảng 107 - 135cm với con cái nhỏ hơn con đực một chút.

Loài chim này giao phối suốt đời và sinh sản 2 năm 1 lần. Vào thời kỳ sinh sản, chúng chiếm các thuộc địa lỏng lẻo trên các nhóm đảo biệt lập ở Nam Đại Dương. Khi tán tỉnh, chúng sẽ dang rộng cánh, vẫy đầu và đập mỏ vào nhau trong khi kêu inh ỏi.

Chúng đẻ một quả trứng màu trắng có một vài đốm và dài khoảng 10cm. Tổ là những chiếc bát lớn được xây bằng thảm thực vật có cỏ và than bùn đất. Thời gian ấp trứng kéo dài 11 tuần là một trong những thời gian dài nhất đối với bất kỳ loài chim nào.

Trong giai đoạn đầu phát triển của chim non, chim bố hoặc mẹ thay phiên nhau ngồi trên tổ trong khi con còn lại đi tìm thức ăn. Sau đó, khi con trưởng thành, cả chim bố lẫn chim mẹ đều đi tìm thức ăn và đến thăm chim non theo những khoảng thời gian không đều đặn.

Chim hải âu tuyết dành phần lớn cuộc đời để bay, chỉ hạ cánh để sinh sản và kiếm ăn. Khoảng cách di chuyển mỗi năm rất khó đo lường, nhưng một con chim đeo vòng đã được ghi nhận di chuyển 6.000km trong 12 ngày.

9-tit.jpg

Cygnus olor hay thiên nga câm là thành viên của họ chim nước Anatidae. Tên "câm" bắt nguồn từ việc chúng ít kêu hơn các loài thiên nga khác .

Với chiều dài từ 125 - 160cm, loài thiên nga lớn này có bộ lông hoàn toàn màu trắng với mỏ màu cam viền đen. Chúng có thể được nhận biết bằng cục u nổi bật trên đỉnh mỏ, lớn hơn ở con đực.

thien-nga-cam.jpg

Đây là loài chim nước lớn thứ 2 sau thiên nga kèn mặc dù thiên nga câm đực có thể dễ dàng bằng hoặc thậm chí vượt quá một con thiên nga kèn đực về khối lượng. Trong số các phép đo tiêu chuẩn của thiên nga câm, dây cánh đo được là 53 - 62,3cm, xương cổ chân là 10 - 11,8cm và mỏ là 6,9 - 9cm. Bộ lông có màu trắng, trong khi chân có màu xám đen. Mỏ của thiên nga câm có màu cam sáng, với màu đen xung quanh lỗ mũi và móng chân màu đen .

Thiên nga câm là một trong những loài chim biết bay nặng nhất còn tồn tại. Trong một số nghiên cứu từ Vương quốc Anh, con đực (được gọi là cob) được phát hiện có trọng lượng trung bình từ khoảng 10,6 - 11,87kg với phạm vi trọng lượng từ 9,2 - 14,3kg, trong khi con cái nhỏ hơn một chút (được gọi là pens) có trọng lượng trung bình khoảng 8,5 - 9,67kg với phạm vi trọng lượng từ 7,6 - 10,6kg.

Thiên nga câm có thể đạt tốc độ khi bay lên tới 88,5km/h và khi cất cánh có thể đạt tốc độ khoảng 48km/h khi chạy để tăng lực nâng.

8-tit.jpg

Bồ nông Dalmatian (Pelecanus crispus) còn được gọi là bồ nông đầu xoăn, là thành viên lớn nhất của họ bồ nông và là một trong những loài chim biết bay nặng nhất thế giới.

Với sải cánh thường dao động từ 2,7 - 3,2m, nó được xếp hạng là một trong những loài chim bay cao lớn nhất. Những con bồ nông này được biết đến với chuyến bay uyển chuyển và thường di chuyển theo đàn đồng bộ.

Với phạm vi trải dài khắp Trung Á, từ phía đông Địa Trung Hải ở phía tây đến eo biển Đài Loan ở phía đông và từ Vịnh Ba Tư ở phía nam đến Siberia ở phía bắc. Đây là loài chim di cư cự ly ngắn đến trung bình giữa các khu vực sinh sản và trú đông.

chim-bo-nong-dalmatia.jpg

Giống như các loài bồ nông khác, chế độ ăn của chúng chủ yếu là cá và con đực lớn hơn con cái. Lông gáy xoăn, chân màu xám, bộ lông trắng bạc là những đặc điểm nổi bật và đôi cánh có màu xám đặc khi bay. Tuy nhiên, con trưởng thành có bộ lông xỉn màu hơn vào mùa đông khiến chúng trông giống bồ nông trắng lớn hơn.

Tiếng kêu khàn khàn của chúng trở nên rõ ràng hơn trong mùa giao phối. Chúng sinh sản trên khắp vùng cổ Bắc Cực từ Đông Nam Âu đến Nga, Ấn Độ và Trung Quốc trong các đầm lầy, hồ nông. Chúng thường quay trở lại các địa điểm sinh sản truyền thống, nơi chúng ít hòa đồng hơn các loài bồ nông khác. Tổ của chúng là những đống thực vật thô sơ được đặt trên các đảo hoặc thảm thực vật dày đặc.

Số lượng loài này đã giảm mạnh trong thế kỷ 20, một phần là do sử dụng đất, xáo trộn và hoạt động săn trộm. Quần thể cốt lõi còn tồn tại ở Nga nhưng trong phạm vi Mông Cổ, chúng đang bị đe dọa nghiêm trọng.

7-tit.jpg

Thần ưng Andes hay Kền kền khoang cổ là một loài chim thuộc họ Kền kền Tân thế giới.

Loài này phân bố ở Nam Mỹ trong dãy Andes bao gồm các dãy núi Santa Marta. Tại phía Bắc, phạm vi của nó bắt đầu ở Venezuela và Colombia, nơi mà nó là vô cùng hiếm hoi, sau đó tiếp tục về phía nam dọc theo dãy núi Andes ở Ecuador, Peru và Chile, thông qua Bolivia và phía tây Argentina Tierra del Fuego.

than-ung-andes.jpg

Đầu thế kỷ 19, thần ưng Andes sinh sản từ miền tây Venezuela đến Tierra del Fuego, dọc theo toàn bộ chuỗi của dãy Andes, nhưng phạm vi của nó đã bị giảm đáng kể do hoạt động của con người. Đây là loài chim bay lớn nhất trên thế giới về số đo kết hợp giữa trọng lượng và sải cánh. Chúng có sải cánh tối đa là 3,3m và cân nặng lên đến 15kg. Thần ưng Andes được coi là chim săn mồi lớn nhất thế giới.

Thần ưng Andes chủ yếu là động vật ăn xác thối, xác sống. Chúng thích những thân thịt lớn, chẳng hạn như của hươu hoặc gia súc. Chúng đạt đến độ tuổi trưởng thành về mặt sinh dục khi được 5 hoặc 6 tuổi và làm tổ ở độ cao lên đến 5.000m, thường là trên các gờ đá không thể tiếp cận.

Thông thường chúng đẻ hoặc 2 quả trứng mỗi lứa. Đây là một trong những loài chim sống lâu nhất thế giới với tuổi thọ hơn 70 năm trong một số trường hợp.

6-tit.jpg
chim-o-tac-an-do.jpg

Ardeotis nigriceps hay chim ô tác Ấn Độ là một loài chim ô-van xuất hiện ở tiểu lục địa Ấn Độ. Đây là loài chim lớn có thân nằm ngang, chân dài và là một trong những loài chim bay nặng nhất.

Chim ô tác Ấn Độ lớn không thể nhầm lẫn với mũ đen tương phản với đầu và cổ nhạt màu. Cơ thể có màu nâu với một mảng đen đốm trắng. Con trống có màu nâu cát sẫm và trong mùa sinh sản có một dải ngực màu đen. Đỉnh đầu có màu đen và có mào và phồng lên khi con trống phô bày. Ở con mái nhỏ hơn con trống, đầu và cổ không phải là màu trắng tinh khiết và dải ngực thô sơ, đứt đoạn hoặc không có.

Trong số các loài chim ô-van, loài này chỉ nhỏ hơn loài chim ô-van Kori và loài chim ô-van lớn về kích thước. Đây cũng là loài chim trên cạn lớn nhất trong phạm vi bản địa của nó. Chim ô tác Ấn Độ lớn cao khoảng 1m có cổ hơi dài và chân khá dài.

Con cái giống như hầu hết các thành viên của họ chim ô-van thường nhỏ hơn đáng kể. Con đực có túi cổ họng phát triển tốt, túi này phồng lên khi kêu trong quá trình biểu diễn và giúp tạo ra tiếng kêu cộng hưởng sâu.

Chim ô tác Ấn Độ lớn được liệt kê là loài cực kỳ nguy cấp trong Sách đỏ IUCN kể từ năm 2011. Loài này được bảo vệ theo Đạo luật Động vật hoang dã Ấn Độ năm 1972.

5-tit.jpg

Đà điểu Nam Mỹ hay đà điểu châu Mỹ (danh pháp khoa học: Rhea) là chi đà điểu Nam Mỹ duy nhất trong họ cùng tên gồm 2 loài chim sống ở Nam Mỹ.

da-dieu-nam-my.jpg

Loài này có kích thước cơ thể nhỏ hơn đà điểu châu Phi nhưng lớn hơn đà điểu Emu. Thức ăn chủ yếu là các loài thực vật và sâu bọ. Chúng sống ở các trảng cỏ Argentina, Brazil và Bolivia.

Đà điểu Nam Mỹ là loài chim lớn… không biết bay với bộ lông xám-nâu, các chân dài và cổ cũng dài, trông tương tự như đà điểu châu Phi. Chúng có thể cao tới 1,7m và cân nặng tới 40kg.

Cánh của loài này là lớn đối với chim không biết bay và xòe rộng ra khi chạy, có vai trò giống như cánh buồm. Không giống như phần lớn các loài chim khác, đà điểu Nam Mỹ chỉ có 3 ngón chân. Xương cổ chân của chúng có các tấm nằm ngang ở phía trước nó. Chúng cũng tích nước tiểu tách biệt trong phần mở rộng của lỗ huyệt.

4-tit.jpg

Chim cánh cụt hoàng đế (tên khoa học: Aptenodytes forsteri) là một loài chim trong họ Spheniscidae. Chúng là loại chim lớn nhất và nặng nhất trong số tất cả những loài chim cánh cụt hiện hữu ở châu Nam Cực.

Con trống và con mái có bộ lông, kích thước tương tự nhau, chiều cao đạt tới 122cm, cân nặng từ 22 - 45kg. Đầu, lưng màu đen; bụng, chân màu trắng, ngực màu vàng nhạt và tai màu vàng tươi. Cơ thể thuôn dài. Chim cánh cụt không biết bay, có đôi cánh nhỏ và dẹt cùng chân chèo thích nghi với môi trường nước.

chim-canh-cut-hoang-de.jpg

Thức ăn thường ngày của chim cánh cụt hoàng đế là cá, nhưng đôi khi chúng cũng ăn động vật giáp xác, các loài nhuyễn thể, động vật thân mềm và mực. Trong khi đi săn, loài này có thể lặn xuống dưới nước trên 18 phút và sâu tới 535m.

Chim cánh cụt hoàng đế nổi tiếng với những chuỗi hành trình của các con lớn mỗi năm để giao phối với nhau và nuôi con cái. Các loài cánh cụt chỉ sinh sản duy nhất vào mùa đông ở châu Nam Cực, chúng phải đi quãng đường dài khoảng từ 50 - 120km trên băng để tới khu vực sinh sản, nơi có hàng ngàn cá thể.

Những con mái sẽ đẻ ra một quả trứng duy nhất, sau đó con trống sẽ lo việc ấp trứng, còn con mái ra biển kiếm mồi. Sau đó, con trống và con mái thay nhau tìm kiếm thức ăn ngoài biển cũng như chăm sóc cho cánh cụt con. Tuổi thọ của chim cánh cụt hoàng đế là 20 năm, mặc dù có một số con có thể sống tới 50 tuổi.

Kết quả nghiên cứu của viện Hải dương học Woods Hole vào tháng 1/2009 đã cho rằng, chim cánh cụt hoàng đế có thể tuyệt chủng vào năm 2100 do biến đổi khí hậu trên Trái Đất.

3-tit.jpg

Đà điểu Emu hay đà điểu châu Úc (danh pháp khoa học: Dromaius novaehollandiae) là một loài chim thuộc họ Đà điểu châu Úc của bộ Casuariiformes. Chúng là loài chim lớn thứ 2 còn sinh tồn về mặt chiều cao, sau họ hàng của nó, đà điểu châu Phi.

da-dieu-chau-uc.jpg

Đây là loài đặc hữu của Australia, nơi nó là loài chim bản địa lớn nhất và là thành viên duy nhất còn sinh tồn của chi Dromaius. Phạm vi phân bố của chúng bao phủ hầu hết lục địa Úc, nhưng các phân loài trên Tasmania, Đảo Kangaroo và Đảo King đã bị tuyệt chủng sau khi người châu Âu định cư ở Australia vào năm 1788.

Đà điểu Emu là loài chim mà đầu và cổ có lông mềm, màu nâu, không bay với cổ và chân dài, chân có 3 ngón, có thể cao tới gần 2m. Emu có thể di chuyển một quãng đường rất xa, khi cần thiết có thể chạy nước rút với tốc độ 50km/h. Chúng ăn nhiều loại thực vật và côn trùng nhưng đã được biết là có thể nhịn ăn trong nhiều tuần. Chúng uống nước không thường xuyên, nhưng uống rất nhiều nước khi có cơ hội. Trọng lượng cơ thể trung bình khoảng từ 40 - 50kg.

Việc sinh sản diễn ra vào tháng 5, tháng 6 và việc tranh giành bạn tình giữa các con cái hay thường diễn ra. Con cái có thể giao phối nhiều lần và đẻ nhiều ổ trứng trong một mùa.

Con đực thực hiện việc ấp trứng; trong suốt quá trình này nó hầu như không ăn hay uống và giảm trọng lượng cơ thể đáng kể. Trứng nở sau khoảng 8 tuần và con non được nuôi dưỡng bởi cha của chúng. Chúng đạt kích thước tối đa sau khoảng 6 tháng nhưng vẫn có thể tồn tại như một gia đình cho đến mùa sinh sản tiếp theo.

Emu là một biểu tượng văn hóa đại chúng quan trọng của Australia, xuất hiện trên quốc huy và các loại tiền xu. Loài chim này nổi bật trong thần thoại bản địa.

2-tit.jpg

Đà điểu đầu mào hay Đà điểu Úc đội mũ, Đà điểu New Guinea là các loài chim chạy thuộc họ Đà điểu châu Úc (Casuariidae), sống ở Australia và New Guinea cùng một số đảo cận kề.

da-dieu-dau-mao.jpg

Cơ thể cao khoảng 1,2m, chúng có cánh nhưng không thể bay, chỉ có thể chạy. Khi chạy, chúng giơ 2 cánh lên và vỗ vỗ để giữ thăng bằng. Chúng chạy ngắn nhưng nhảy tốt và bơi rất cừ. Cổ trụi lông, lộ ra những yếm thịt màu đỏ và lam. Loài đà điểu này có thể chạy với vận tốc 50km/h xuyên qua rừng rậm, nhảy cao tới 1,5m.

Trên đầu có một cái mào lớn chính là đặc điểm nhận dạng của các loài đà điểu này, đây cũng là phương pháp gây sự chú ý cho bạn tình khi đến mùa giao phối. Trên ngón út của đà điểu đầu mào có một chiếc móng dài và sắc nhọn. Khi gặp nguy hiểm chúng thường nổi nóng và dùng móng tấn công kẻ thù. Ngay cả trong đàn cũng thường xuyên xảy ra tranh chấp. Đà điểu đầu mào hay phá hủy nông trại, hoa màu có thể làm con người bị thương, thậm chí chỉ cần một nhát đâm là có thể khiến chó, ngựa... tử vong.

Bước vào thế kỉ 19, loài này bị săn bắt tràn lan nên đã từng gần như tuyệt chủng. Hiện nay, số lượng cá thể sống hoang dã không còn nhiều, chúng ta hầu như chỉ có thể chiêm ngưỡng trong vườn bách thú. Năm 2007 đà điểu đầu mào được ghi vào sách kỷ lục Guiness với danh hiệu là “loài chim nguy hiểm nhất thế giới”.

1-tit.jpg

Đà điểu châu Phi (danh pháp khoa học: Struthio camelus) là một loài chim… chạy có nguồn gốc từ châu Phi.

Loài này rất khác biệt về hình thể với cổ, chân dài và có tốc độ lên đến 65km/h. Tên khoa học của nó bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "chim lạc đà". Trong tên khoa học của nó, “camelus” mang ý nghĩa liên tưởng tới môi trường sống khắc nghiệt trong tự nhiên của chúng.

da-dieu-chau-phi.jpg

Đà điểu châu Phi nặng từ 90 - 130kg, một số đà điểu trống đã được ghi nhận là có thể nặng đến 155kg. Đà điểu trống trưởng thành có lông chủ yếu là màu đen với một vài điểm trắng ở cánh và đuôi. Đà điểu mái và con non có màu xám nâu nhạt với vài đốm trắng.

Đà điểu trống dùng đôi cánh nhỏ do thoái hóa của nó để múa gọi bạn tình và che chở cho đà điểu con. Bộ lông của chúng mềm và khác biệt so với lông vũ của loài chim bay. Vẫn còn những cái móng trên hai cánh của chúng.

Cặp chân khỏe của chúng không có lông. Chân có hai ngón với một ngón lớn hơn trông giống như… móng ngựa. Điểm độc đáo này giúp cho khả năng chạy của đà điểu. Với lông mi rậm và đen, cặp mắt của đà điểu lớn nhất trong các loài động vật trên cạn còn sống.

Ở độ tuổi trưởng thành (2 - 4 năm), đà điểu trống cao 1,8 - 2,7m, đà điểu mái cao 1,7 - 2m. Trong năm đầu tiên, đà điểu con tăng cao 25cm/tháng, khi 1 năm tuổi đà điểu đạt trọng lượng 45kg.

Chúng ăn chủ yếu là hạt hay cây cỏ, đôi khi ăn cả những động vật nhỏ như cào cào. Kiếm ăn vào ban ngày là chủ yếu. Không có răng, chúng phải nuốt sỏi để giúp cho việc nghiền thức ăn trong mề. Chúng có thể đi trong một thời gian dài không cần đến nước, mà chỉ dựa vào độ ẩm của những cây cỏ chúng nuốt vào. Tuy nhiên chúng thích nước và thường hay tắm.

Với khả năng nghe và nhìn thính nhạy, chúng có thể phát hiện những loài thú săn mồi như sư tử từ khoảng cách xa. Đà điểu bị xếp là động vật nguy hiểm ở Australia, Mỹ và Anh.

Xem thêm

Hawaii và những thác nước tuyệt đẹp

Hawaii và những thác nước tuyệt đẹp

Không chỉ nổi tiếng với những bãi biển cát trắng, những khu rừng rậm tựa thiên đường, Hawaii còn được biết đến là nơi có nhiều thác nước hùng vĩ và độc đáo…